Công suất máy và máy hàn cao tần. - Đông cơ kéo chính: Moteur 75 kw. - Công suất hàn cao tần: 200kw. - Bóng cao tần 100KWx2 = 200 KW (Đèn điện tử FD911). - Điện nguồn cung cấp: 3p - 380v - 50hz. - Tần số Max 600 KHz. - Công suất biến app: 180 KVA. - Kiểu máy hàn Ep - 100
Tại Việt Nam dòng điện 50hz được sử dụng phổ biến hơn 60hz bởi các lý do sau đây: Tần số 60hz thiết bị phải có sự cách điện cao hơn, tiêu tốn chi phí nhiều hơn. Đa số các quốc gia trên thế giới đều sử dụng dòng điện có tần suất 50hz nên việc nhập khẩu các
Nhưng bà đã không làm điều đó, trước sự phê bình của công chúa, bà đã nghe theo lẽ phải. Trong lịch sử, ngoài Vinh Thọ Công chúa, Từ Hi Thái hậu còn nể sợ vài người khác nữa. Năm 1868, Vinh Thọ Công chúa được gả cho Phú Sát Chí Đoan, con trai của Cố Luân Ngạch phò
Đức Long là lựa chọn cho một hành trình di chuyển bằng xe khách Hà Nội Đông Hưng Thái Bình thoải mái và dễ chịu. *Chi tiết xe khách Đức Long: Tần suất: 1 chuyến/ngày. Giờ xe chạy: 11h00. Điểm đón: Bến xe Mỹ Đình. Điểm trả: Bến xe Đông Hưng
Thai Vietjet sẽ tiếp tục tăng tần suất trên các đường bay Bangkok - Phuket, Bangkok - Chiang Mai, Phuket - Chiang Rai. Tin từ hãng hàng không Vietjet, bên cạnh việc khai thác ổn định mạng bay nội địa Thái Lan trên các đường bay Bangkok - Phuket, Bangkok - Chiang Mai, Phuket - Chiang Rai, Thai
Zxdv. Thành lập bản đồ tần suất canh tác lúa khu vực huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình sử dụng tư liệu viễn thám đa thời gianThành lập bản đồ tần suất canh tác lúa khu vực huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình sử dụng tư liệu viễn thám đa thời gianTư liệu viễn thám đa thời gian MODIS, Landsat … đã từ lâu chứng minh tính hiệu quả trong giám sát quá trình canh tác nông nghiệp. Nghiên cứu này nhằm phát triển một phương pháp giám sát quá trìnhcanh tác lúa ở huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình sử dụng dữ liệu viễn thám Landsat. Nghiên cứu đã tiến hành xử lý dữ liệu vệ tinh landsat từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 11 năm 2016 45 cảnh ảnh, sử dụng phương pháp cây phân loại Decision tree. Quy trình phân loại được thực hiện trong bốn bước chính 1 chiết tách và xử lý dữ liệu EVI, NDWI đa thời gian; 2 khoanh vùng khu vực canh tác lúa; 3 phân loại loại hình canh tác lúa; và 4 đánh giá độ chính xác. Độ chính xác tổng thể của quá trình phân loạilà và 80% tương ứng với các năm 2010 và 2015. Kết quả so sánh diện tích được phân loại từ ảnh vệ tinh và diện tích theo số liệu thống kê được đánh giá chưa biệt khu vực lúa một vụ, có sự phân loại nhầm với cây trồng hàng năm khác và khu vực có cỏ. Nghiên cứu này đã chứng minh khả...
TTO - Rất nhiều bài học cần được rút ra nghiêm túc sau đợt mưa tại Đà Nẵng. Tuy nhiên nhiều người trong cuộc cho rằng dù đã theo dõi kỹ thông tin thời tiết nhưng rất mơ hồ vì không thể hình dung được mức độ ngập lũ dựa vào thông số dự báo lượng mưa. TS Nguyễn Ngọc Huy - Ảnh Trẻ Online đã có cuộc trao đổi với TS NGUYỄN NGỌC HUY - chuyên gia về giảm thiểu rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu, người được cộng đồng biết đến với biệt danh "cánh chim báo bão", chủ trang Facebook gần nửa triệu lượt theo dõi "Huy Nguyễn".Ông nhận định như thế nào về đợt mưa lũ vừa qua tại TP Đà Nẵng?Khoảng thời gian mưa tại Đà Nẵng gây ra trận ngập lụt kinh hoàng là từ 15h đến 21h ngày 14-10 với lượng mưa duy trì liên tục trong 6 tiếng. Cá biệt, lượng mưa cao nhất ghi nhận ở trạm Suối Đá, Sơn Trà là 637mm trong 6 tiếng. Trung bình khoảng 100mm trong 1 ở trọ trên đường Mẹ Suốt, Đà Nẵng nháo nhào chạy lũ trong đêm 14-10 - Ảnh thái mưa 600mm/6 tiếng liên tục thì thuộc tần suất 500 năm mới xuất hiện 1 lần xác suất xảy ra khoảng 0,2% mỗi năm.Liệu đợt mưa "lịch sử" như vừa rồi có tiếp tục lặp lại khi mà diễn biến thời tiết ngày càng khó lường?Khi nghiên cứu xu hướng lượng mưa lịch sử gia tăng hay không thì người ta dựa vào hai yếu tố. Đó là xu hướng lặp lại của các trận mưa cực đoan trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây để so sánh với quá khứ. Qua theo dõi chúng ta thấy số lượng này xuất hiện thường xuyên hơn, và lượng mưa cũng lớn hơn so với trước. Như vậy cả về tần suất lẫn mức độ đều có sự gia người dân ở tổ 29, Hòa Khánh Nam, Liên Chiểu Đà Nẵng khá bình tĩnh khi nước lên chưa lớn, nhưng chỉ vài tiếng sau nước đã lút nóc nhà - Ảnh sao để hạn chế các rủi ro trước các đợt thiên tai? Chúng ta chỉ có thể hạn chế các rủi ro bằng cách tăng không gian cho nước bằng hồ chứa, hạn chế phát triển đô thị kiểu be bờ xung quanh bờ biển, hạn chế lấn sông và hãy dành không gian mặt thoáng cho nước tự chảy. Bằng cách đó sẽ giảm áp lực cho các hạ tầng thoát nước cho đô nông thôn, chúng ta hạn chế bê tông hóa mảnh vườn hoặc mảng sân nhà mình. Các trường học, các công sở không nên bít kín bằng bê tông, vừa nóng vừa không thấm khác người dân cần sẵn tâm thế để sơ tán đồ đạc, nắm bắt kỹ thông tin dự báo thay vì cố gắng để bơm nước ra ngoài hoặc tìm giải pháp chống như người dân Đà Nẵng đã bàng hoàng vì không nghĩ mưa gây ngập kinh khủng như thế. Dù họ có đầy đủ thông tin nhưng dường như mọi thứ chỉ rất chung chung, số liệu không cụ thể hóa để dân hình dung ra được?Đúng! Cái quan trọng nhất đó là phải cảnh báo thiên tai tới từng người dân để làm sao mỗi người dân tự nhận ra được rủi ro sẽ xảy đến. Người dân Đà Nẵng được sửa xe ngập lũ miễn phí từ các thợ tình nguyện quê Quảng Nam - Ảnh dụ người dân trước khi mưa sẽ nhận được thông tin là lượng mưa 500 - 600mm/ngày đến với Đà Nẵng thì cái quan trọng nhất là cộng đồng phải được giải thích cặn kẽ với lượng mưa đó thì sẽ "to" cỡ nào để sơ tán đồ đạc, họ sẽ ở đâu để an toàn. Về khoa học cảnh báo, dự báo trong tương lai thì chúng ta phải nhanh chóng xác định được mức lũ, trong chuyên môn gọi là "vết lũ". Vết lũ lịch sử sẽ là một cơ sở để đưa ra các phân tích lượng mưa trong tương lai đạt ở mức bao nhiêu, vết lũ đó sẽ được xây dựng từ cộng đồng địa phương. Quá trình đó họ sẽ ghi nhận trong trí nhớ, suy nghĩ rằng với cảnh báo lượng mưa bao nhiêu thì nhà của họ sẽ bị ngập bao nhiêu. Điều này sẽ thay đổi quan điểm ứng phó và giúp chủ động, hạn chế tối đa thiệt hại như vừa qua tại Đà Nẵng. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao
Tư liệu viễn thám đa thời gian MODIS, Landsat … đã từ lâu chứng minh tính hiệu quả trong giám sát quá trình canh tác nông nghiệp. Nghiên cứu này nhằm phát triển một phương pháp giám sát quá trìnhcanh tác lúa ở huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình sử dụng dữ liệu viễn thám Landsat. Nghiên cứu đã tiến hành xử lý dữ liệu vệ tinh landsat từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 11 năm 2016 45 cảnh ảnh, sử dụng phương pháp cây phân loại Decision tree. Quy trình phân loại được thực hiện trong bốn bước chính 1 chiết tách và xử lý dữ liệu EVI, NDWI đa thời gian; 2 khoanh vùng khu vực canh tác lúa; 3 phân loại loại hình canh tác lúa; và 4 đánh giá độ chính xác. Độ chính xác tổng thể của quá trình phân loạilà và 80% tương ứng với các năm 2010 và 2015. Kết quả so sánh diện tích được phân loại từ ảnh vệ tinh và diện tích theo số liệu thống kê được đánh giá chưa biệt khu vực lúa một vụ, có sự phân loại nhầm với cây trồng hàng năm khác và khu vực có cỏ. Nghiên cứu này đã chứng minh khả năng giám sát quá trình canh tác nông nghiệp bằng dữ liệu viễn thám Landsat. To read the full-text of this research, you can request a copy directly from the has not been able to resolve any citations for this has not been able to resolve any references for this publication.
Sau nửa thế kỷ phát triển mạnh mẽ, tuabin khí đã đạt tới đỉnh cao hoàn thiện hiệu suất của thiết bị tuabin khí TTK chu trình đơn đã tăng trên hai lần và đạt tới gần 40%, còn công suất đơn vị tổ máy lên tới 300 MW. Đó là nhờ nâng cao hiệu suất của cả các bộ phận hợp thành máy nén, buồng đốt, tuabin cũng như nhờ tăng nhiệt độ khí trước tuabin TG. Tuabin khí chu trình hỗn hợp Nhờ sử dụng các vật liệu bền nhiệt hiện đại, hệ thống làm mát các bộ phận nóng nhất, kể cả các vỏ bọc rào nhiệt, nhiệt độ khí đã tăng thêm được khoảng 800 K và đạt trị số K. Công suất đơn vị của tuabin khí với hệ số nén pc = 18 ÷ 21 và lưu lượng không khí đầu vào máy nén 730 ÷ 740 kg/s, là khoảng 340 MW, khi đó hiệu suất của tuabin khí bằng 38 ÷ 39%. Hiệu suất của thiết bị tuabin khí chu trình hỗn hợp* TBKHH đạt gần 60% và công suất của hệ thống thiết bị, tùy theo cấu hình, đã đạt tới 980 với những tuabin khí có tiềm năng lớn, nếu tăng nhiệt độ lên cao hơn sẽ dẫn tới tăng tiêu hao năng lượng cho hệ thống làm mát, điều đó dẫn đến làm giảm hiệu quả tương đối từ sự tăng nhiệt độ. Hình 1 trình bày động thái thay đổi hiệu suất và công suất riêng của TTK trong giai đoạn 1991 – 2001, ví dụ như TTK của hãng General Electric Mỹ mẫu 701 PG 7191F, PG 7221FA, PG 7231FA, PG 7224FA, PG 7251FB. Trong tương lai ít có hi vọng có thể cải thiện đáng kể các đặc tính lưu lượng của máy nén, còn việc tăng nhiệt độ khí trước tuabin khí không phải là vô hạn. Ít có khả năng nâng cao đáng kể hiệu suất và công suất đơn vị của TTK theo chu trình đơn Brighton, trong khi đó, nếu sử dụng các chu trình nhiệt động mở rộng của Zotikov hoặc V. V. Uvarov, vấn đề đó có thể giải quyết một cách thắng lợi. Xu thế phức tạp hóa chu trình của TTK đã được thể hiện trong các công trình nghiên cứu triển khai của nhiều hãng có uy tín ở phương Tây. Trong dự án được nhiều người biết đến về hệ thống thiết bị kết hợp TTK – 200 – 750 dựa trên chu trình V. V. Uvarov công trình phối hợp của các chuyên gia Nhà máy chế tạo tuabin – máy phát điện Kharkov và Trường đại học Kỹ thuật công nghiệp Matxcơva, với nhiệt độ khí trước tuabin K, tổng mức tăng áp suất trong máy nén pc = 128 và với khả năng truyền không khí qua máy nén 453 kg/s thì công suất tính toán và hiệu suất tương ứng là 200 MW và 39,5%. Khi qui đổi về nhiệt độ khí trước tuabin K và giữ nguyên như trước các thông số khác thì công suất và hiệu suất thiết bị là 400 MW và 49,7%. Nếu tăng lưu lượng không khí tới 737 kg/s, công suất TTK đạt tới 647 MW. Để so sánh Một trong những TTK hoàn thiện nhất của hãng Mitsubishi MPCP1-701G2 với nhiệt độ khí trước tuabin bằng K, lưu lượng không khí qua máy nén là 737 kg/s có hiệu suất 39,5% và công suất 334 MW, còn công suất của TBKHH được tổ hợp trên cơ sở TTK đó là 489 MW với hiệu suất 58,7%. Thí dụ về việc thực hiện TTK theo chu trình V. V. Uvarov với số lượng hợp thể ít hơn là việc chế tạo TTK GT-100-750 năm 1970 một lần làm mát trung gian và một quá trình cháy trung gian. Đó là thành tựu đáng kể của ngành chế tạo TTK ở Nga. Sau đó ở Nhật, khi nghiên cứu triển khai TTK kiểu AGTJ-100A theo chương trình “Ánh sáng trăng” thực tế đã tái tạo lại sơ đồ nhiệt động của GT-100-750. Khi đó, giải thích về giải pháp của họ, các chuyên gia Nhật đã nêu lý do là với việc giới hạn nhiệt độ khí trước tuabin thì con đường duy nhất để tăng công suất đơn vị và hiệu suất TTK là chuyển sang chu trình nhiệt động mở rộng. Thiết bị AGTJ – 100A đã được sử dụng để vận hành trong TBKHH chu trình nhị nguyên. Với nhiệt độ của sản phẩm cháy sau buồng đốt chính là K và của buồng đốt trung gian là K thì hiệu suất sẽ là 38%, còn công suất khi lưu lượng không khí ở đầu hút vào máy nén là 220 kg/s sẽ là 100 MW. Thí dụ về TTK chu kỳ nhiệt động mở rộng, mới xuất hiện trên thị trường là TTK GT-26 của hãng Alstom trong đó có một tầng nén, hai tầng dãn và buồng đốt trung gian nằm giữa hai tầng này. Với mức tăng áp còn gọi là tỷ số nén là 30 thì chu trình nhiệt động mở rộng nói trên đã cho phép đạt được công suất riêng 443 kWs/kg giống như ở TTK MPCP1 – 701G2 của hãng Mitsubishi. Trong trường hợp đó, nhiệt độ khí trước tuabin trong TTK GT-26 là K, khác với nhiệt độ K trong TTK của hãng Mitsubishi. Chu trình đa hợp thể V. V. Uvarov được đặc trưng bởi tổng mức tăng áp cao, kết quả là áp suất tuyệt đối của chất công tác ở cuối quá trình nén đạt trên 10 MPa. Áp suất cao như vậy gây khó khăn trong việc chế tạo TTK trong thực tế. Tuy nhiên điều đó có thể tránh được. Để giải thích ý tưởng này cần phải quay lại với chu trình Carnot. Nếu cắt chu trình Carnot với mức tăng áp suất p theo đường đẳng áp thành hai chu trình ghép với mức tăng áp ở mỗi chu trình p1 = p2 = trong đó áp suất ban đầu trong mỗi chu trình đó là áp suất khí quyển, áp suất tối đa trong mỗi chu trình cũng chỉ bằng lần khí quyển. Trong khi đó tổng hiệu suất và công suất riêng của chu trình cấu thành từ hai phần ghép của chu trình Carnot sẽ giữ nguyên như của chu trình ban đầu. Cách tiếp cận tương tự cũng có thể mở rộng sang chu trình V. V. Uvarov. Hình 2 trình bày biểu đồ T, s với các chu trình của TTK và các sơ đồ nguyên lý tương ứng của các thiết bị, kể cả thiết bị dựa trên chu trình đơn Brighton để so sánh. Để dễ hiểu, tất cả các thiết bị được biểu diễn theo sơ đồ một trục. Nhiệt độ khí trước tuabin là K. Khi phân tích các chu trình trên, điều cần quan tâm là sự phụ thuộc của hiệu suất phần truyền dẫn các bộ cánh tuabin của máy nén và tuabin vào mức tăng áp suất mức dãn tương ứng trong thiết bị, còn tổn thất nhiệt động của áp suất theo tuyến của TTK trong các ống của máy nén và tuabin, trong thiết bị trao đổi nhiệt, buồng đốt được đưa vào các máy nén và tuabin tương ứng và được tính bằng cách đưa vào các hiệu suất quy ước hQ Trong đó sI = 1 – D i; D i – tổng các tổn thất tương đối về áp suất trong các phần tử của TTK, chỉ số i ký hiệu hoặc cho máy nén K, hoặc tuabin T; hPK, hPT – hiệu suất politropic của tầng máy nén và của tầng tuabin; K – chỉ số của đường đoạn nhiệt. Phân tích các chu trình chỉ ra rằng đối với TTK chu trình hở nhiệt động mở rộng thì việc đưa mức tăng áp suất dưới 3 đối với các tầng nén và mức dãn dưới 4 đối với các tầng dãn nở chưa chắc có lợi, bởi vì khi đó, tổn thất ở các ống đầu vào và đầu ra, các buồng đốt trung gian và các thiết bị trao đổi nhiệt tương ứng với công tương đối nhỏ hơn của hệ thống cánh tuabin. Điều đó dẫn tới giảm các trị số hiệu suất quy ước của tuabin và máy nén, điều đó thể hiện rõ trên các hình 3 và 4. Giảm pK và pT của các bậc nén và dãn nở đòi hỏi phải tăng số bậc, do đó quá trình xích gần tới đẳng nhiệt, tuy nhiên hiệu quả có lợi đó lại bị cào bằng bởi sự sụt giảm các hiệu suất quy ước. Đối với các chu trình 1, 2 và 3 xem hình 2 đã chấp nhận nhiệt độ của khói thoát là như nhau = T14 = 840 K với giả định rằng sử dụng cùng một kiểu TTK những chu trình đó tựa như “đặt vào nhau”. Chu trình 1 là chu trình Brighton đơn giản, chu trình 2 tương tự như chu trình của TTK GT-100-750 chu trình V. V. Uvarov tối giản, chu trình 3 là chu trình V. V. Uvarov với hai bộ làm mát trung gian với ba bậc nén và với hai lần gia nhiệt trung gian ba bậc dãn. Các chu trình 4 1 và chu trình 4 2 là hai phần của chu trình 3 được cắt theo đường đẳng áp 7 – 13. Trong trường hợp đó, chúng có thể được xem như hai chu trình riêng biệt, liên hệ với nhau về nhiệt động qua đường đẳng áp trên đoạn 5 – 12, trên đó chu trình 4 1 mất hiệu entanpi h12 – h5, còn chu trình 4 2 nhận được hiệu entanpi đó. Việc cắt đôi chu trình 3 hoặc các chu trình tương tự như vậy, được gọi là chuẩn nhị nguyên, cho phép duy trì được cấu hình của chu trình ban đầu, giảm mạnh áp suất cực đại trong chu trình 4 1 so với chu trình 3 ban đầu. Về mặt hình thức có thể xác định hiệu suất và công suất riêng của các chu trình 4 1 và 4 2 riêng rẽ, có xét đến rằng trong chu trình 4 2 diễn ra sự tận dụng triệt để nhiệt năng toả ra từ chu trình 4 1 trên đoạn đẳng áp 5 – 12. Tiếp sau đó, có thể tìm hiệu suất tổng bình quân gia quyền của hai chu trình. Rõ ràng rằng trong trường hợp đó tổng công suất riêng và hiệu suất tổng hóa ra là bằng công suất riêng và hiệu suất của chu trình 3 ban đầu. Tuy nhiên để thực hiện trong thực tế TTK chuẩn nhị nguyên cần phải sử dụng hai TTK chu trình hở xem hình 2e, TTK thứ nhất vận hành theo chu trình 4 1 và TTK thứ hai theo chu trình 4 2. Trong trường hợp đó, để chuyển hiệu của các entanpi h12 – h5 cần phải sử dụng thiết bị trao đổi nhiệt – tương tự thiết bị hoàn nhiệt, chỉ với một khác biệt là nhiệt năng được tận dụng của khói thoát từ TTK chu trình 4 1 đi vào sấy không khí trước buồng đốt của TTK chu trình 4 2. Để tạo ra các điều kiện chuyển nhiệt năng cần phải đảm bảo áp lực nhiệt độ giữa môi trường gia nhiệt [trong chu trình 4 1] và môi trường được gia nhiệt [trong chu trình 4 2], trong đó đi kèm theo quá trình trao đổi nhiệt trong thiết bị tương ứng là các tổn thất áp lực trong cả hai chu trình. Hình 5 giới thiệu hai phương án khả dĩ thực hiện chu trình của TTK chuẩn nhị nguyên. Trong phương án thứ nhất hình 5a cấu hình của chu trình 4 1 được giữ nguyên không thay đổi, còn áp suất theo nhiệt độ cần thiết được thực hiện bằng cách giảm nhiệt độ sau máy nén K2 xuống còn T51, điều đó đòi hỏi giảm một cách phù hợp mức tăng áp suất trong máy nén đó. Bởi vì để duy trì nhiệt độ T14 không đổi thì mức dãn của tuabin T3 cũng phải duy trì không đổi, đối với mức tăng áp suất của máy nén thứ nhất đòi hỏi sự hiệu chỉnh tương ứng theo hướng tăng mức đó. Trong trường hợp đó, công suất riêng của chu trình 4 2 thực tế là không thay đổi, còn nhiệt lượng đưa vào buồng đốt sẽ tăng thêm một trị số tỷ lệ thuận với hiệu số T5 – T51 = T12 – T12*, nghĩa là tỷ lệ thuận với áp lực nhiệt độ đã chấp nhận. Kết luận 1. Cơ sở của các thiết bị nhị nguyên tổ hợp hiện đại là các TTK chu trình đơn Brighton. Trong các ứng dụng này, nhiệt độ khí trước tuabin đạt tới – K và lưu lượng không khí hút vào máy nén tăng lên tới 740 kg/s. Điều đó cho phép nâng hiệu suất TTK năng lượng đạt mức 39,5%, và công suất đơn vị tới 335 MW, công suất của thiết bị nhị nguyên trên cơ sở một TTK đạt 450 – 490 MW, với hiệu suất gần 60%. 2. Ngày nay những thông số của TTK chu trình đơn nhiệt độ khí trước tuabin và lưu lượng không khí qua máy nén đã tiến gần các trị số giới hạn đối với các TTK đặt cố định, tuổi thọ dài. Khó có thể tăng hơn nữa đáng kể các thông số đó. Ngoài ra, mỗi độ nâng thêm nhiệt độ khí trước tuabin dẫn tới giảm nhịp độ gia tăng hiệu suất và công suất riêng. Trong khi đó, tăng nhiệt độ khiến cho việc giải quyết các vấn đề sinh thái trở nên phức tạp hơn. 3. Ở mức hiện đại của nhiệt độ khí trước tuabin và lưu lượng không khí hút vào máy nén, việc chuyển sang các TTK chu trình mở rộng về nhiệt động học mở ra con đường cho việc tiếp tục tăng lên một cách cơ bản tính kinh tế và công suất của các TTK đặt cố định, và kể cả các thiết bị tổ hợp được tạo ra trên cơ sở các TTK. Việc chuyển sang các thiết bị đó sẽ tạo điều kiện nâng cao tính kinh tế của TTK tới 58% và công suất đơn vị tới MW. Tương ứng điều đó sẽ cho phép nâng hiệu suất của thiết bị nhị nguyên tổ hợp tới 70% với công suất gần MW. 4. TTK chu trình nhiệt động mở rộng có đặc điểm là trị số tổng mức tăng áp suất cao và tương ứng áp suất cực đại trong chu trình cũng cao. Việc chuyển sang TTK chuẩn nhị nguyên cho phép – giảm trị số áp suất cực đại trong chu trình 4 1 khoảng lần – loại trừ sự giảm tính kinh tế của các hệ thống cánh tuabin liên quan tới áp suất cao. – tránh được các vấn đề giảm độ bền và các ứng lực dọc trục đi kèm theo với áp suất cao của môi trường công tác. 5. Hiệu suất và công suất riêng của chu trình TTK chuẩn nhị nguyên tỏ ra thấp hơn không đáng kể so với các chỉ tiêu tương ứng của chu trình ban đầu. Sự giảm tương đối những chỉ tiêu đó phụ thuộc vào áp lực nhiệt độ đã được chấp nhận và tổn thất áp suất của chất mang nhiệt trong thiết bị trao đổi nhiệt giữa các chu trình. 6. Trong việc tạo ra thiết bị trao đổi nhiệt giữa các chu trình tương tự thiết bị hoàn nhiệt cần phải áp dụng những thành tựu kỹ thuật hiện đại nhất. Theo KHCN Điện số 5/2008
I. Xử lý bùn thải công nghiệp cho các quy mô khác nhauII. Phương pháp xử lý bùn thải cho các hệ thống sản xuất1. Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp vật lý đơn giản2. Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp hóa học 3. Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp kết tủa4. Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp oxi hóa khử5. Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp chôn lấp nhanhXử lý bùn thải công nghiệp là điều được quy định rõ ràng tại Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thực hiện vệ sinh định kỳ nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất cũng như bảo vệ môi trường và sức khỏe của con người. Để lựa chọn phương pháp tối ưu cho từng loại chất thải và thời gian xử lý định kì, hãy tham khảo qua bài viết dưới đây để có câu trả Xử lý bùn thải công nghiệp cho các quy mô khác nhauTần suất xử lý bùn thải cho mô hình doanh nghiệp nhỏĐối với các mô hình doanh nghiệp nhỏ thì nên xử lý bùn thải công nghiệp cho bể chứa ít nhất 1 năm 1 lần. Tùy theo mức độ sản xuất nhưng với mô hình này thì doanh nghiệp nên xử lý bùn thải ít nhất 1 lần trong năm để đảm bảo vệ sinh môi suất xử lý bùn thải cho mô hình doanh nghiệp vừaĐối với những công ty hoặc doanh nghiệp có quy mô trung bình thì nên xử lý hút bùn thải cho bể chứa ít nhất nửa năm 1 lần 6 tháng 1 lần.Tần suất xử cho mô hình doanh nghiệp lớnĐối với mô hình doanh nghiệp lớn thì xử lý hút bùn thải cho bể chứa ít nhất 1 tháng 1 lần để đảm bảo sản xuất hiệu quả, an toàn và bảo vệ môi trường theo quy cạnh những lợi ích đó, thực hiện xử lý bùn thải thường xuyên cũng có thể giúp bạn phát hiện được những lỗ hổng trong quy trình sản xuất và can thiệp kịp thêm Có bao nhiêu biện pháp xử lý bùn thải công nghiệp hiện nay?II. Phương pháp xử lý bùn thải cho các hệ thống sản xuấtKhông phải phương pháp xử lý bùn thải công nghiệp của doanh nghiệp nào cũng giống nhau. Dựa vào mô hình, ngành nghề sản xuất mà mỗi công ty sẽ chọn phương pháp phù hợp với doanh nghiệp. Dưới đây là 5 phương pháp xử lý bùn thải được các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất. Trong quá trình thực hiện nên sử dụng những thiết bị chuyên dụng để thu gom và xử lý bùn thải, đảm bảo an toàn sức khỏe cũng như tối ưu quy trình thực Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp vật lý đơn giảnXử lý bùn thải bằng phương pháp vật lý là một trong những phương pháp được sử dụng khá nhiều hiện nay, phù hợp với mô hình doanh nghiệp ở nước ta. Với phương pháp xử lý đơn giản này, các đơn vị sẽ tách các chất thải từ quá trình sản xuất ra khỏi bùn bằng phương pháp Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp hóa họcMột cách xử lý bùn thải công nghiệp được nhiều doanh nghiệp sử dụng là xử lý bằng phương pháp hóa học. So với phương pháp trên thì phương pháp này khá phức tạp. Kĩ sư chuyên môn sử dụng các hóa chất cho phản ứng với hỗn hợp cần xử lý. Các chất hóa học có tác dụng loại bỏ các thành phần độc hại trong chất thải và chuyển nó về trạng thái bình thường hoặc không gây hại cho sức khỏe con người và môi trường. 3. Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp kết tủaPhương pháp tạo kết tủa là phương pháp sử dụng các chất hóa học để chuyển các chất thải thành các chất không tan/chất kết tủa. Các chất này được chuyển hóa thành các cặn bùn, có thể dễ dàng tiến hành xử lý bằng phương pháp hút Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp oxi hóa khửXử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp oxi hóa khử nhằm biến các chất độc hại có trong bùn hoặc chất thải thành các chất ít độc hơn hoặc loại bỏ hoàn toàn chất độc. Tuy nhiên, chi phí để xử lý bùn theo phương pháp này khá cao nên ít khi được các doanh nghiệp áp Xử lý bùn thải công nghiệp bằng phương pháp chôn lấp nhanhĐây là phương pháp xử lý được sử dụng phổ biến nhất ở nước ta, sau khi tiến hành hút bùn công nghiệp, chúng sẽ được đóng gói hoặc hóa kết tủa để dễ dàng đưa đến bãi chôn. Bãi chôn lấp bùn thải cũng được xây dựng đúng với quy trình, phải có giấy phép từ các cơ quan chức năng. Bãi chôn lấp cần phải đáp ứng được các yêu cầu về địa hình, thổ nhưỡng, thủy văn… Đặc biệt, phải cách xa khu dân cư, các khu đất trồng lương thực, gần các nguồn nước sử dụng trong sinh hoạt và trồng trình xử lý bùn thải công nghiệp cần được thực hiện bởi những tổ chức có chuyên môn vì đối với bùn thải nguy hại và bùn thải vi sinh rất dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Bên cạnh đó, các đơn vị khi tiến hành thu gom và xử lý cần sử dụng những thiết bị chuyên dụng để tránh được những rủi ro không đáng có, cũng như tối ưu được quá trình thu gom, vận chuyển và xử hiểu thêm về Có bao nhiêu biện pháp xử lý bùn thải công nghiệp hiện nay?Xử lý bùn thải công nghiệp là việc làm quan trọng mà các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cần lưu ý trong việc tìm kiếm đơn vị xử lý chuyên nghiệp. VIVABLAST tự hào là đơn vị xử lý bùn thải với nhiều năm kinh nghiệm. Các chuyên gia của VIVABLAST sẽ trực tiếp đánh giá và đưa ra biện pháp xử lý phù hợp với tình trạng cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Để nhận được tư vấn cụ thể về dịch vụ xử lý bùn thải, hãy liên hệ với VIVABLAST thông qua các thông tin dưới dâyĐiện thoại + 84-28 38 965 006/7/8Fax + 84-28 38 965 004Email vivablast
tần suất thái bình